Mục tiêu xuất khẩu của ngành nông nghiệp và môi trường năm 2025 là 65 tỷ USD, phấn đấu 70 tỷ USD. Ảnh: Tùng Đinh.
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Đỗ Đức Duy vừa ký ban hành văn bản về kế hoạch hành động và mục tiêu phát triển của ngành năm 2025. Cụ thể, phấn đấu giá trị gia tăng khu vực nông, lâm nghiệp, thủy sản tăng 4% trở lên.
Trong đó, giá trị gia tăng lĩnh vực nông nghiệp tăng 3,85% (giá trị sản xuất trồng trọt tăng 2,4 - 2,9%; giá trị sản xuất chăn nuôi tăng 5,7 - 5,98%); giá trị gia tăng thủy sản tăng 4,35%; giá trị gia tăng lâm nghiệp tăng 5,47%. Tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản (NLTS) năm 2025 đạt 65 tỷ USD, phấn đấu đạt 70 tỷ USD.
Quan điểm của Bộ Nông nghiệp và Môi trường là thống nhất từ tư duy đến hành động trong Bộ và toàn ngành, cùng nỗ lực, quyết tâm thực hiện đồng bộ các nhóm nhiệm vụ, giải pháp để bảo đảm hoàn thành mục tiêu tăng trưởng ngành và tổng kim ngạch xuất khẩu NLTS năm 2025 được Chính phủ giao.
Kế hoạch hành động được xác định phải rõ ràng, cụ thể, khả thi, dễ kiểm tra, giám sát, dễ đánh giá; việc phân công nhiệm vụ bảo đảm 5 rõ: "rõ người, rõ việc, rõ trách nhiệm, rõ sản phẩm, rõ thời gian hoàn thành".
8 nhiệm vụ giải pháp
Để đảm bảo mục tiêu đề ra, kế hoạch hành động của Bộ Nông nghiệp và Môi trường nêu 8 nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu trong thời gian tới. Đầu tiên là nâng cao nhận thức, xác định quyết tâm chính trị mạnh mẽ, quyết liệt lãnh đạo, chỉ đạo, tạo xung lực mới trong toàn Ngành nông nghiệp và môi trường để đạt mục tiêu tăng trưởng.
Trong đó, tăng cường vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ủy Bộ, cấp ủy các cơ quan, đơn vị (gọi chung là các đơn vị) thuộc Bộ trong thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp đề ra; bám sát tình hình thực tiễn,phối hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa các đơn vị thuộc Bộ với các cấp, các ngành, các địa phương.
Thứ hai, hoàn thiện thể chế, chính sách phục vụ tăng trưởng ngành và xuất khẩu nông lâm thủy sản; triển khai thực hiện đồng bộ, hiệu quả các nghị quyết, chiến lược, chương trình, đề án, quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành.
Cụ thể, rà soát toàn diện, sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành, lĩnh vực nông nghiệp và môi trường, bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ, phù hợp với mô hình tổ chức các cơ quan sau sáp nhập, hợp nhất, đặc biệt là mô hình chính quyền địa phương 2 cấp.
Phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và các đơn vị liên quan hoàn thiện các cơ chế, chính sách để hỗ trợ các dự án xanh, thúc đẩy tín dụng xanh và đầu tư vào các ngành kinh tế thân thiện với môi trường.
Ba là, tiếp tục đẩy mạnh thực hiện cơ cấu lại ngành, nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng sản phẩm và hiệu quả sản xuất, kinh doanh nông lâm nghiệp và thủy sản.
Cách làm là tập trung cơ cấu lại các tiểu ngành, lĩnh vực và trong từng ngành thực chất, hiệu quả, gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng thông qua tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ, chuyển đổi số, đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh, tính tự chủ, khả năng thích ứng và sức chống chịu của nền kinh tế.
Bộ Nông nghiệp và Môi trường xác định cần có giải pháp ổn định thị trường, kiểm soát sự biến động giá của một số mặt hàng ở trong nước. Ảnh: Tùng Đinh.
Bốn là, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính phục vụ người dân, doanh nghiệp. Tiếp tục thực hiện cải cách hành chính, tháo gỡ các rào cản, nút thắt cơ chế, chính sách, thủ tục hành chính, gắn với chuyển đổi số trong nông nghiệp, nông thôn, tài nguyên và môi trường để tạo động lực mạnh mẽ cho tăng trưởng Ngành.
Trong đó, thực hiện hiệu quả chuyển đổi số trong cấp phép, kiểm soát mã số vùng trồng, vùng nuôi, ao nuôi bảo đảm truy xuất nguồn gốc. Nghiên cứu xây dựng sàn giao dịch nông sản quốc gia để đưa nông sản Việt Nam đến thị trường quốc tế nhanh và hiệu quả hơn, đồng thời phục vụ quản lý thương hiệu gắn với chất lượng nông sản Việt Nam.
Năm là, tăng cường chuyển đổi số; thực hiện đột phá trong ứng dụng, chuyển giao khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo. Ví dụ như chuyển giao, nhân rộng ứng dụng các biện pháp canh tác bền vững, các giải pháp khoa học công nghệ, rải vụ hiệu quả nhằm giảm chi phí phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thú y và các chi phí trung gian khác để nâng cao hiệu quả sản xuất, nâng cao thu nhập cho người sản xuất.
Sáu là, thúc đẩy phát triển thị trường trong nước và xuất khẩu. Trong đó, với xuất khẩu cần đẩy mạnh xúc tiến thương mại, mở cửa thị trường, đàm phán để tháo gỡ rào cản kỹ thuật, rào cản thương mại và mở cửa xuất khẩu chính ngạch thêm nhiều nông sản vào thị trường truyền thống, các thị trường có tổng kim ngạch xuất khẩu lớn, mở cửa các thị trường mới, còn nhiều tiềm năng với phương châm đa dạng hóa sản phẩm, đa dạng hóa thị trường.
Ở trong nước, cần có lộ trình, phương án giải pháp rõ ràng đẩy mạnh tiêu thụ nội địa đối với những sản phẩm có tính thời vụ cao (như rau, hoa, quả), dễ bị tác động của điều kiện tự nhiên, thời tiết, làm giảm phẩm cấp, chất lượng. Có giải pháp ổn định thị trường, kiểm soát sự biến động giá của một số mặt hàng nông sản, thủy sản, thức ăn chăn nuôi, vật tư nông nghiệp.
Bảy là thúc đẩy mạnh mẽ các ngành, lĩnh vực hỗ trợ sản xuất nông, lâm, thủy sản và Tám là đẩy mạnh truyền thông phát triển nông nghiệp và bảo vệ môi trường.
Nguồn: Báo Nông Nghiệp